Ngưu hoàng

Tên thường gọi: Ngưu hoàng là Sạn mật bò còn gọi là Tây hoàng,   Tô hoàng, Sửu bảo, Đởm hoàng (cũng gọi Ô kim hoàng, Đản hoàng, Quả hoàng tức sạn túi mật), Quản hoàng (cũng gọi Toái phiến hoàng, Không tâm hoàng tức sạn ở ống gan mật).

Tên tiếng Trung: 牛黄

Tên khoa học: Calculus Bovis.

Tên thực vật: Bos tourus domesticus Gmelin.

Ngưu hoàng

Ngưu hoàng

Mô tả:  

Ngưu hoàng là sạn (sỏi) trong túi mật của con bò.  Ngưu hoàng có khi to bằng quả trứng gà, bé thì bằng hạt sạn, sắc vàng, đắng, thơm, xốp nhẹ, không nứt vỡ, không đen sẫm là tốt.

Phân bố:

Ngưu hoàng vị thuốc hiếm thỉnh thoảng mới có thấy trong mật con bò, nơi nào nuôi bò nơi đó có Ngưu hoàng tuy nhiên vị này rất quý hiếm và đắt. Hiện nay còn có Ngưu hoàng tổng hợp bán ở thị trường quốc tế.

Ngưu hoàng nhân tạo (tổng hợp) là dùng mật bò hay mật heo gia công tổng hợp thành. Những năm gần đây, người ta dùng phương pháp nuôi Ngưu hoàng thiên nhiên ở những con bò sống bằng cách cho cấy Hoàng hạch vào túi mật rồi bơm trực khuẩn đại tràng ( E. Coli) không gây bệnh vào làm cho thành phần của mật bám vào Hoàng hạch hình thành sạn mật nên gọi là Ngưu hoàng thiên nhiên nhân tạo.

Ngưu hoàng tổng hợp thì hiện nay ở Trung quốc có chế nhiều để đáp ứng nhu cầu. Ngưu hoàng thiên nhiên thì quanh năm đều có. Chú ý lúc mổ bò, nếu phát hiện có Ngưu hoàng lấy ra âm can nơi mát và không được có gió thổi, không phơi nắng hay sấy lửa vì có thể làm cho Ngưu hoàng nứt vỡ đổi màu đều kém phẩm chất. Cần gói kín để trong lọ màu dưới đáy có gạo rang hoặc vôi cục.

Ở vùng Tây bắc, Đông bắc và Hà bắc Trung Quốc có loại bò cho Ngưu hoàng. Các nước khác như Nam mỹ, có Kim sơn ngưu hoàng và Ấn độ có Ấn độ ngưu hoàng.

Bộ phận dùng và phương pháp chế biến:

Sỏi mật của ngưu hoàng thu thập quanh năm, hoặc là mật của ngưu hoàng (trâu) hoặc lợn có thể dùng thay thế. Sấy và nghiền thành bột hoặc làm thành viên.

Thành phần hóa học:

Cholic acid, desoxycholic acid, cholesterol, bilirubine, tauroccholic acid, glycine, alanine, methionine, asparagine, arginine, sodium, magnesium, calcium, phosphate, sắt, carotene, amino acid, vitamin D.

Tác dụng dược lý:

Thuốc có tác dụng an thần, chống co giật và hạ sốt. Ngưu hoàng có tác dụng đối kháng với thuốc hưng phấn trung khu thần kinh. Thuốc có thể phòng cơn co giật cho chuột gây bởi camphor hay cafein nhưng không có tác dụng phòng co giật gây nên do strychnine. Thuốc làm tăng tác dụng của chloral hydrate và barbiturate. Thuốc không có tác dụng giảm đau hay gây ngủ.

Ngưu hoàng có tác dụng ức chế tính thẩm thấu của mạch máu và có tác dụng kháng viêm. Trên mô hình huyết áp cao ở chuột đồng, thuốc có tác dụng hạ áp rõ rệt và tác dụng kéo dài ( trên 2 – 3 ngày với 1 liều thuốc). Trên tim cô lập của chuột lang thuốc gây kích thích nhưng gây co thắt động mạch vành. Thí nghiệm trên thỏ, thuốc gây hạ áp, giãn mạch ngoại biên và ức chế tác dụng của epinephrine đối với tim.

Ngưu hoàng có tác dụng tăng tạo máu: trên thỏ thực nghiệm thuốc làm tăng hồng cầu và huyết sắc tố, tăng rõ hơn ở thỏ gây thiếu máu. Nhưng với liều cao thì thuốc có tác dụng ngược lại.

Thuốc có tác dụng lợi mật: thuốc làm tăng tiết mật rõ rệt và làm giãn cơ vòng của ống mật. Tác dụng chống co thắt cơ trơn của thuốc là do tác dụng tổng hợp của thành phần cholic acid và desoxycholic acid.

Thành phần acid cholic của thuốc có tác dụng làm giảm ho suyễn. Thuốc hưng phấn hô hấp. Ngưu hoàng nhân tạo có tác dụng ức chế sarcoma 37 và sarcoma 180 ở chuột nhắt.

Độc tính của thuốc: cho chuột uống Ngưu hoàng với liều 0,6g/kg mỗi ngày trong 6 ngày không thấy có gì thay đổi về cân nặng, lượng ăn, nước tiểu, phân và tình hình hoạt động so với lô chứng. Khi chúng được cho uống trong vòng 12 ngày cùng liều đó thì chúng nhẹ hơn so với lô chứng. Lúc liều cho uống tăng lên 10 – 30 lần, phần lớn tiêu chảy, một số ít hôn mê và chết. Khi cho những con chuột đồng huyết áp cao uống với liều 1g/kg trong 15 tuần, không có tác dụng phụ nào. Giết chuột chết, các tạng phủ không có thay đổi bệnh lý.

Vị thuốc Ngưu hoàng

Tính vị: Vị đắng, tính mát.

Qui kinh: Vào kinh can và tâm.

Công năng: Thanh nhiệt và giải độc, trừ phong nội sinh và chống co giật, trừ đàm.

Chỉ định và phối hợp:

– Mất ý thức và co giật do sốt cao: Dùng phối hợp ngưu hoàng với hoàng liên, tê giác và sạ hương.

– Ðau họng hoặc loét và nhọt do tính nhiệt độc: Dùng phối hợp ngưu hoàng với thanh đại và kim ngân hoa.

Liều dùng: 0,2-0,5g.

Kiêng kỵ:

Không dùng ngưu hoàng cho thai phụ.

Ứng dụng lâm sàng của Ngưu hoàng

Trị các bệnh viêm đường hô hấp trên, cúm, viêm phế quản, viêm phổi Dùng độc vị Ngưu hoàng và các bài thuốc có Ngưu hoàng:

trị các bệnh viêm đường hô hấp trên, cúm, viêm phế quản, viêm phổi 146 ca, trị có kết quả với tỷ lệ 75,2% ( Thông tin Trung thảo dược 1972,4:49).

Trị bệnh nhiễm sốt cao hôn mê co giật, đàm mê tâm khiếu thực chứng:

Vạn thị Ngưu hoàng thanh tâm hoàn: Ngưu hoàng 0,3g, Hoàng liên 5g, Hoàng cầm, Chi tử, Uất kim đều 10g, Chu sa 3g làm hoàn thuốc thành phẩm uống theo qui định của bào chế. An cung Ngưu hoàng hoàn ( xem vị Băng phiến).

Ngưu hoàng tán:

Ngưu hoàng 0,3g, Chu sa 3g, Xạ hương 0,1g, Thiên trúc hoàng 10g, Yết vĩ 1,5g, Câu đằng 15g, chế thành thuốc tán, mỗi lần uống 1.5 – 3g, uống với nước sôi nguội.

Trị viêm mồm họng và các chứng nhọt độc:

Ngưu hoàng giải độc hoàn: Ngưu hoàng 1,5g, Cam thảo 5g, Kim ngân hoa 30g, Thất diệp nhất chi hoa 6g, tán bột mịn làm hoàn. Mỗi lần uống 3g, ngày 2 – 3 lần.

Chữa trúng phong khiếu bế, tinh thần bị kích thích, có khi hôm mê:

Ngưu hoàng 1g, Hoàng liên 20g, Chu sa 6g, Hoàng cầm 12g, Sơn chi 12g, Uất kim 8g. Tán nhỏ viên bằng hạt gạo mỗi lần uống 8 – 10 viên. Công dụng: Thanh nhiệt, giải biểu, khai khiếu, an thần. (Ngưu Hoàng Thanh Tâm Hoàn)

Trị sốt cao, co giật, mê sảng, trúng phong, đột quỵ:

Ngưu hoàng 10g, Sừng trâu 200g, Xạ hương 25g, Trân châu 50g; Chu sa, Hùng hoàng, Hoàng liên, Hoàng cầm, Chi tử, Uất kim, mỗi vị 100g; băng phiến 25g. Thêm mật ong, làm hoàn 3g/viên. Tác dụng: Thanh nhiệt giải độc, trấn kinh, khai khiếu. Một liệu trình 5 ngày, mỗi ngày dùng 1 viên.(An Cung Ngưu Hoàng Hoàn)

Trị mụn đậu đinh:

Ngưu hoàng 4,8g, Nhi trà 7,2g, Thần sa 3,2g, Trân châu 0,8g. Tán bột mịn, trộn dầu Yên chỉ. Dùng kim khêu đinh nốt đậu đinh rồi rắc thuốc vào chổ đã khêu (Tứ Thánh Đơn – Ngoại Khoa Khải Huyền).

Trị bệnh nhiễm sốt cao hôn mê co giật, đàm mê tâm khiếu thực chứng:

Ngưu hoàng 0,3g, Hoàng liên 5g, Hoàng cầm, Chi tử, Uất kim đều 10g, Chu sa 3g làm hoàn thuốc thành phẩm uống theo qui định của bào chế. (Vạn Thị Ngưu Hoàng Thanh Tâm Hoàn)

Trị thần trí hỗn loạn, lời nói không chuẩn, đờm dãi nhiều, choáng đầu, hoa mắt, điên giản, kinh phong, hôn mê:

Ngưu hoàng, xạ hương, linh dương giác, chu sa. Uống ngày 1 – 2 viên, 3 – 4 tuần là một liệu trình, nghỉ 1 tuần. Tác dụng: Thanh tâm, hóa đàm, trấn kinh, khứ phong…(Ngưu Hoàng Thanh Tâm Hoàn).

Trị hỏa nhiệt nội thịnh, hầu họng, lợi sưng đau, miệng lưỡi mụn nhọt, mắt sưng đỏ:

Ngưu hoàng 5g, hùng hoàng, cam thảo, mỗi vị 50g, thạch cao, đại hoàng, mỗi vị 200g, hoàng cầm 150g, cát cánh 100g, băng phiến 25g. Ngày 4 – 6 viên, tác dụng thanh nhiệt giải độc. (Ngưu Hoàng Giải Độc Phiến)

Trị đau đầu, hoa mắt, mắt đỏ, tai ù, hầu họng sưng thũng, miệng lưỡi sinh nhọt, đại tiện táo kết:

Ngưu hoàng, cúc hoa, chi tử, hoàng liên, hoàng cầm…đồng lượng, thêm mật ong làm hoàn, mỗi ngày uống 6g, tác dụng thanh nhiệt, tả hỏa, tán phong, chỉ thống. (Ngưu Hoàng Thượng Thanh Hoàn)

Trị viêm miệng, họng và các chứng nhọt độc:

Ngưu hoàng 1,5g, Cam thảo 5g, Kim ngân hoa 30g, Thất diệp nhất chi hoa 6g, tán bột mịn làm hoàn. Mỗi lần uống 3g, ngày 2 – 3 lần. (Ngưu Hoàng Giải Độc Hoàn)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Hotline: 0975 04 03 06