CÂY Ô RÔ

Tên khác: Rô, Ô rô hoa nhỏ

Tên khoa học: Acanthus ebracteatus Vahl.

Họ khoa học: thuộc họ Ô rô – Acanthaceae.

Cây Ô rô

Mô tả:

Cây Ô rô

Cây nhỏ cao 1-1,5m, thân tròn, không lông. Lá mọc đối, phiến không lông, mép có răng cứng rất nhọn. Bông ở chót nhánh, mang hoa mọc đối màu trắng, mỗi hoa có một lá bắc nhỏ; tràng có màu trắng, dài đến 2,2cm; nhị 4, có lông ở bao phấn. Quả nang dài 2cm; hột 4, dẹp. Hoa quanh năm, chủ yếu từ mùa xuân đến mùa thu.

Bộ phận dùng: Toàn cây – Herba Acanthi Ebracteati.

Nơi sống và thu hái: Loài phân bố từ Ấn Ðộ qua Thái Lan, Việt Nam, Nam Trung Quốc (Hải Nam) đến Malaixia, Inđônêxia. Thường mọc tại các bãi nước lợ, bãi biển, cửa sông và hai bên bờ sông gần biển khắp nước ta.

Thành phần hoá học:

Trong cây có chứa alcaloid. Trong rễ có tanin. Từ năm 1981, người ta đã tách được từ rễ một triterpenoidal saponin gọi là [( -L – arabinofuranosyl – ({1 ->~~4}) – b – D – glucuronopyranosyl ({1 ->~~3}) – 3b – hydrooxy – lup -20(29) -ene. Lá chứa nhiều chất nhờn.

Vị thuốc Ô rô

Tính vị, công dụng:

Rễ có vị mặn chua, hơi đắng, tính hàn; có công dụng lợi tiểu, tiêu viêm và làm long đờm.

Cây có vị hơi mặn, tính mát, có công dụng làm tan máu ứ, tiêu sưng, giảm đau, tiêu đờm, hạ khí.

Toàn cây thường dùng làm thuốc hưng phấn, trị đau lưng nhức mỏi, tê bại, ho đờm, hen suyễn.

Rễ và lá còn được dùng trị thủy thũng, đái buốt, đái dắt, chữa thấp khớp. Nhân dân Cà Mau (Minh Hải) vẫn dùng nước nấu của đọt Ô Rô với vỏ quả lá Quao để trị đau gan.

Lá và rễ cũng được dùng để ăn trầu, đánh cho nước trong, và cũng dùng chữa bệnh đường ruột.

Ở Trung Quốc rễ dùng trị bệnh gan, gan lách sưng to, bệnh hạch bạch huyết, hen suyễn; đau dạ dày; u ác tính.

Liều dùng: 30-60g.

Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Ô rô

Chữa đau gan, vàng da, trúng độc:

Lấy 500g ô rỏ phối hợp với 500g vỏ cây quao nước, cắt nhỏ, sao vàng, cho vào thùng nhôm. Đổ vào 3 lít nước, nấu còn 1 lít. Lọc lấy nước thứ nhất. Tiếp tục đun với 2 lít nước nữa cho đến khi được 500ml. Lọc lấy nước thứ hai. Trộn hai nước lại, cho 400g đường trắng vào. Cô đặc còn một lít. Đổ 40ml rượu có hòa 1g acid benzoic. Ngày uống hai lần, mỗi lần một thìa canh.

Chữa ho dòm, hen suyễn:

Ô rô 30g, thái nhỏ, ninh nhỏ lửa với thịt lợn nạc 60-120g và nước 500ml cho sôi kỹ đến khi còn 150ml. Uống làm 2 lần trong ngày. Đối với rễ của cây ô rô, thì thường được sử dụng là cạo sạch lớp vỏ ngoài, rửa sạch, thái mỏng, phơi hay sấy khô, khi dùng để sống hoặc sao vàng, sao cháy. Dược liệu có vị mặn, đắng, tính hàn, có tác dụng giảm đau, lợi thủy, trừ thấp, chống viêm.

Rễ cây ô rô chữa thấp khớp, đau lưng, nhức xương, tô bại:

Rễ ô rô 30g, canh châu 20g, rễ cây kim váng 8g, quế chi 4g. Tất cả thái nhỏ, tẩm rượu, sao vàng, sắc với nước, uống làm hai lần vào lúc đói.

Rễ cây ô rô chữa nước tiểu vàng, táo bón:

Rễ ô rô 30g, vừng đen 20g, lá muống trâu 18g. Vừng giã nát, hai vị kia thái nhỏ, rồi trộn đều sắc uống trong ngày.

Rễ cây ô rô chữa rong huyết:

Rễ ô rô 30g, thái nhỏ, sao với giấm cho cháy đen, bổ hoàng 20g sao cháy tồn tính; hoa kinh giới 18g, sao cháy tồn tính; sắc uống ngày 1 thang. Dùng nhiều ngày.

Rễ cây ô rô chữa ứ huyết:

Rễ ỏ rô 30g, lá tràm 20g, sắc uống. Chắc chắn rằng, 5 tác dụng của cây ô rô mang lại trong việc điều tri bệnh lý mà bài viết trên đây vừa liệt kê, sẽ giúp cho bạn đọc có thể hiểu rõ hơn về loại cây này, cũng như có thể dễ dàng ứng dụng vào điều trị những chứng bệnh mà mình gặp phải, một cách đúng đắn và hiệu quả.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Hotline: 0975 04 03 06