Ngũ bội tử

Tên khác: Còn gọi là bầu bí, măc piêt, bơ pật

Tên khoa học: Galla sinensis Ngũ bội tử là những túi đặc biệt do nhộng của con sâu ngũ bội Schlechtendalia sinensisBell gây ra trên cuống lá và cành của cây muối hay cây diêm phu mộc Rhus semialata Murray thuộc họ Đào lộn hột.

Cây Ngũ bội tử

Ngũ bội tử

Mô tả cây

Cây muối là một cây nhỏ cao từ 2-8m. Lá mọc so le, kép dìa lẻ, gồm 7-14 lá chét. Cuống lá chung có dìa như cánh, trên có những lông ngắn màu vàng nâu nhạt. Lá chét không cuống hình trứng, mép có răng cưa to, thô, dài 5-14cm, rộng 2.5-9cm. Cụm hoa hình chùy mọc ở đầu cành, dài 20-30cm. Hoa nhỏ, màu trắng sữa. Quả hạch màu cam đỏ, một hạt. Mùa hoa các tháng 8-9, mùa quả tháng 10

Khi cành non và cuống lá cây này bị một giống sâu đục thì sẽ xuất hiện những chỗ sùi lên hình dạng khác nhau dài từ 3-6cm, khi thì giống quả trứng nhỏ, khi thì lại có nhiều nhánh. Trên mặt có lông mị, ngắn màu xám nhạt, có chỗ màu đỏ nâu. Khi bẻ ta thấy dày 1-2mm, cứng bóng như sừng. Trong có những lông nhỏ trắng sợi len và mảnh như con sâu. Những chỗ sùi này được gọi là bầu bí, măc piêt, ngũ bội.

Phân bố, thu hái và chế biến

Ở nước ta, ngũ bội tử chỉ mới có nhiều ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai và một số vùng Tây Bắc gần biên giới Trung Việt.

Tại nhiều nước khác như Nhật Bản, Trung Quốc cũng có. Vào khoảng tháng 5-6, con sâu ngũ bội từ những cây trung gian hay đến cây muối hay cây diêm phu mộc, chích vào cành non và lá cây này, rôi đẻ trứng. Có thể do những chất kích thích tố đặc biệt của trứng và sâu non, những tế bào của cây phát triển đặc biệt, bất thường thành ngũ bội, vào khoảng tháng 9 người ta hái về, hấp nước sôi từ 3-5 phút để giết chết con sâu ở trong phơi khô là được.

Trước đây hằng năm nước ta có thể sản xuất tới 30-40 tấn để xuất, nhưng sau chiến tranh, lượng sản xuất có giảm sút và chưa được phục hồi đúng mức.

Thành phần hoá học

Ngũ bội tử có thành phần hóa học giống ngũ bội tử Trung Quốc. Độ ẩm 13.47%, chất tan vào nước gồm có tamin 43.2%, không tamin 13.20%, chất không tan 30.13%. Trong khi đó ngũ bội tử Trung Quốc có độ ẩm 13.27%, chất tan trong nước gồm tamin 42.5%, không tamin 10%, chất không tan 34.23%.

Nếu trừ độ ẩm đi rồi tỷ lệ tamin của ngũ bội tử Việt Nam là 50%, loại tốt lên tới 60-70%, có khi tới 80%.

Tamin ngũ bội tử còn gọi là penta m.digaloylglucoza trong đó một phân tử glucoza kết hợp với 5 phân tử axit đigalic, có khi một phần tamin gồm một phân tử glucoza kết hợp với axit elagic hay axit galic.

Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:

Thuốc có nhiều chất tanin gây kết tủa albumin nên có tác dụng thu liễm làm lành các vết loét ngoài da, niêm mạc. Chất tanin có thể kết hợp với một số kim loại, ancaloid, glucozit hình thành các hợp chất không hòa tan cho nên có tác dụng giải độc tố đối với các loại thuốc có thành phần như trên.

Tác dụng kháng khuẩn: nước sắc Ngũ bội tử có tác dụng ức chế hoặc giết chết in vitro nhiều loại vi khuẩn như tụ cầu vàng, liên cầu khuẩn, phế cầu khuẩn, trực khuẩn thương hàn, phó thương hàn, kiết lị, bạch hầu, trực khuẩn mủ xanh, virus cúm, chủng virus PR8.

Độc tính của thuốc: cho súc vật thí nghiệm uống nước sắc 100% Ngũ bội tử với liều 20g/kg không thấy có tác dụng gì biểu hiện. Nhưng với cùng liều cho chích dưới da, sinh ra hoại tử tại chỗ, tinh thần kích động, khó thở và tử vong trong 24 giờ.

Vị thuốc Ngũ bội tử

Ngũ bội tử

Tính vị – quy kinh

Vị chua sáp tính hàn, qui kinh Phế, Đại trường, Thận.

Sách Khai báo bản thảo: vị đắng chua, bình, không độc.

Sách Bản thảo cương mục: chua mặn bình, không độc.

Sách Bản thảo bị yếu: mặn chua sáp hàn.

Sách Lôi công bào chế dược tính giải: nhập Đại trường kinh.

Sách Bản thảo kinh sơ: nhập thủ thái âm, túc dương minh kinh.

Sách Bản thảo tái tân: nhập 3 kinh Can, Phế, Thận.

Công dụng: Liễm phế giáng hỏa, sáp tràng, cố tinh, liễm hãn chỉ huyết.

Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Ngũ bội tử

Trị xuất huyết đường tiêu hóa trên:

Ngũ bội tử 6g sắc còn 100ml, chia 3 lần uống trong ngày, nhịn ăn đối với bệnh nhân nôn máu, trường hợp không nôn ăn chế độ lỏng, huyết sắc tố dưới 7g, cho truyền máu. Mỗi ngày theo dõi phân và làm thử nghiệm máu của phân.

Trị di tinh:

Dùng bột mịn Ngũ bội tử trộn với nước muối sinh lý thành hồ lỏng phết vào miếng cao dán 3 x 4cm dán vào huyệt Tứ mãn (huyệt ở vị trí dưới rốn 2 thốn ngang ra mỗi bên 0,5 thốn), 3 ngày thay 1 lần, 3 lần là 1 liệu trình.

Trị sẹo do bỏng:

Ngũ bội tử 8 – 100g tán bột mịn, giấm đen 250ml, Ngô công 1 con tán bột, Mật ong 18g, trộn đều thành cao, phết vào vải đen dán vùng sẹo, 3 – 5 ngày thay 1 lần cho đến khi sẹo mềm và băng lại, hết triệu chứng, chức năng hồi phục.

Trị tưa miệng ( muguet):

Bột Ngũ bội tử 20g, Băng phiến 3g, tán bột mịn trộn đều thổi vào vùng bệnh, ngày 2 lần.

Trị trĩ:  

Ngũ bội tử 500g, tán vụn (sạch), ngâm vào 52,5% cồn 1000ml, bỏ vào lọ bịt kín giữ trong 1 – 2 tháng, lọc nấu sôi vô trùng. Sau khi vô trùng hậu môn vùng trĩ, trực tiếp chích vào búi trĩ, bên trong uống thanh nhiệt chỉ huyết thông tiện, giữ không cho táo bón, sau khi đi tiêu ngâm rửa hậu môn với thuốc tím, thay thuốc dán cao Hoàng liên cho đến khi trĩ rụng, miệng lành.

Trị mồ hôi đêm:

Bột Ngũ bội tử làm thành hồ đắp lên rốn bệnh nhân trước lúc ngủ.

Trị đau bụng tiêu lỏng:

Ngũ bội tử tán bột làm viên bằng hạt đậu xanh, ngày uống 15 – 20 viên với nước Bạc hà.

Trị đái dầm:

Ngũ bội tử giã nhỏ thêm nước thành hồ đắp vào rốn.

 

 

Trẻ con bị trớ:

Ngũ bội tử 3g, một nửa để sống, một nửa nướng chín, trích cam thảo 20g, tất cả tán nhỏ. Mỗi lần dùng 2g bột này, dùng nước cơm hay nước cháo mà chiêu thuốc.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Hotline: 0975 04 03 06