Tên khác
Tên thường gọi: Bàn Long sâm Còn có tên gọi là sâm cuốn chiếu, thao thảo, mễ dương sâm.
Tên khoa học: Spiranthes sinensis (Pers) Ames, (Spiranthes australis Lindl)
Họ khoa học: Thuộc họ lan Orchidaceae.
Ta dùng toàn cây cả rễ của cây bàn long sâm.
Cây Bàn long sâm
Mô tả cây
Loại cỏ sống lâu năm. Thân rễ ngắn, có những rễ củ mẫm mọc toả ra từ gốc. Thân nhỏ nhưng dài, cao tới 15-45cm. Lá mọc từ gốc, hình lưỡi mác dẹp và dài, dài ngắn không đều nhau, dài nhất có thể lên tới 15cm. Những là phía trên thường thoái hoá, chỉ còn như bẹ ôm lấy thân. Hoa trên mọc thành bông, xoắn ốc, dài 5-10cm màu trắng phớt hồng hoặc đỏ. Quả hơi hình trứng có lông mịn, Mùa hoa vào mùa hè.
Phân bố, thu hái và chế biến
Mọc ở khắp những đồng cỏ miền núi ở Việt Nam. Có mọc cả ở Trung Quốc, Châu Úc.
Mùa thu đào cả cây lấy rễ phơi khô mà dùng
Thành phần hoá học
Chưa thấy có tài liệu nghiên cứu
Tác dụng dược lý
Chưa thấy có tài liệu nghiên cứu.
Vị thuốc Bàn long sâm
Tính vị: Bàn long sâm có vị ngọt đắng, tính bình
Quy kinh: Vào 2 kinh Phế và Thận.
Tác dụng
Có tác dụng dưỡng âm thanh nhiệt, nhuận phế, chỉ khái (chống ho), giải độc. Thường dùng chữa cơ thể suy nhược sau khi mắc bệnh nặng, âm hư nội nhiệt (nóng trong do âm hư), ho, thổ huyết, váng đầu, thắt lưng đau mỏi, di tinh, đái đục, phụ nữ nhiều khí hư, mụn nhọt lở loét ngoài da.
Cách dùng, liều dùng:
Sắc nước uống, dùng 15-30g tươi hoặc 10-15g khô; dùng ngoài giã nát đắp lên vết thương.
Nhiều nơi quen dùng coi là một vị thuốc bổ như sâm. Dùng trong những trường hợp cơ thể suy nhược, thổ huyết, bệnh về thận.
Theo kinh nghiệm của nhân dân Trung Quốc dùng trong trường hợp không muốn ăn uống, miệng đầy dãi, nói năng khó, thở khó v.v…
Kiêng kỵ:
Người có thấp nhiệt ứ đọng kiêng dùng.
Ứng dụng lâm sàng của Bàn long sâm
Bồi dưỡng cơ thể sau khi mắc bệnh nặng:
Bàn long sâm 30g, giang đậu căn (rễ cây đậu đũa) 15g, nấu với 250g thịt lợn hoặc thịt gà, làm món canh ăn trong bữa ăn (bỏ bã thuốc, chỉ ăn thịt và uống nước canh); cách 3 ngày ăn 1 lần.
Chữa người già đại tiện phân lẫn máu, bụng có cảm giác như sa xuống trướng đau:
Bàn long sâm 9-15g, cá diếc tươi 60g, nấu chín, thêm đường trắng, chia ra ăn trong ngày.
Chữa hư nhiệt khái thấu:
Dùng bàn long sâm 9-15g, mạch môn đông 8g, sắc nước uống trong ngày.
“Hư nhiệt khái thấu” là chứng ho do âm huyết hư tổn gây nên. Ngoài hiện tượng ho, còn có những biểu hiện như sốt nhẹ hoặc nóng cơn về chiều, lòng bàn chân bàn tay nóng, miệng khô, đêm ngủ hay ra mồ hôi trộm, môi lưỡi đỏ nhạt hoặc đỏ tía, mạch nhỏ nhanh.
Đái tháo đường:
Bàn long sâm 30g, tụy lợn 1 cái, lá ngân hạnh 30g, nấu canh ăn.
Phụ nữ khí hư ra nhiều: Bàn long sâm 30g, lòng lợn 100g, hầm chín, chia 2 lần ăn trong ngày.
Chữa trẻ nhỏ sốt nóng trong mùa hè:
Dùng bàn long sâm 15g, thài lài trắng 10g, sắc nước uống trong ngày.